Sách tôn giáo/Tôn giáo trên thế giới/Sách Kỳ na giáo

Kỳ Na giáo (Jainism) là một tôn giáo Ấn Độ, một tôn giáo có hệ tư tưởng dựa vào hệ thống thánh điển Veda do Vardhamana Mahavira (540 TCN - 468 TCN) sáng lập ra tại bắc Ấn Độ gần như là cùng thời với Phật giáo. Triết lý và phương thức thực hành của đạo dựa vào nỗ lực bản thân để đến cõi Niết Bàn.

Đạo kỳ của Kì-na giáo
Đạo kỳ của Kì-na giáo



Vardhamana Mahavira

sửa

Là một tu sĩ khổ hạnh khỏa thân, Vardhamana Mahavira, vị tổ sư Kỳ Na giáo thứ 24, sống và giảng dạy tại một khu vực của Ấn, ngày nay là Bihar và Uttar Pradesh. Ông chào đời có lẽ trước Đức Phật khoảng vài chục năm. Các tín đồ Kỳ Na giáo đưa ra thời điểm của Mahavira là từ năn 599 tới 527 trước CN, dù thực tế, có thể ông sống trong khoảng thời gian sau đó, từ năm 540 tới năm 468 trước CN; so với thời điểm của Đức Phật là khoảng năm 566 tới 486 trước CN.

Người tập đại thành cho Kỳ Na giáoVardhamana, vị tổ sư thứ 24 . Xuất thân từ một dòng họ nổi tiếng, thuộc đẳng cấp chiến sĩ, ở vùng hạ lưu sông Hằng, ông lập gia đình và có một con gái. Tới năm 30 tuổi, Vardhamana rời gia đình, từ bỏ vợ con, dấn thân vào cuộc sống khổ hạnh và khỏa thân. Con đường tầm đạo của ông kéo dài 12 năm trời mới thành đạo. Trong thời gian ấy, có thời ông hiệp đoàn với Gosaka, người về sau sáng lập Ajivikas, một hệ phái Ấn giáo phi chính thống khác.

Tới năm 42 tuổi, Vardhamana, thành tựu toàn tri — thuật ngữ Kỳ Na giáo dùng để gọi sự thức ngộ, giác ngộ, vì thế được gọi là một Jina: người chinh phục. Các tín đồ của tôn giáo này được gọi là Jaina — thường viết tắt là Jain — nghĩa là những kẻ đi theo người chinh phục. Danh hiệu Mahavira có nghĩa là Đại Anh hùng, một biệt danh dùng để tôn vinh cá biệt vị tổ sư này.

Kết thúc 30 năm rao giảng, xây dựng và phát triển Kỳ Na giáo, Mahavira từ trần sau một cuộc tuyệt thực cho tới chết tại Para, nơi gần Patna ngày nay. Và nơi ấy từ đó trở thành linh địa hành hương của mọi tín đồ Kỳ Na giáo. Cho tới thời điểm nhập diệt, Đức Mahavira có rất đông đảo đệ tử gồm hai dạng: thứ nhất nam nữ tu sĩ (nữ đông hơn nam); và thứ hai các tín đồ tại gia (cư sĩ), luôn luôn giúp đỡ mọi mặt, đặc biệt về vật chất, cho giới tu sĩ.

Lý thuyết của Kỳ Na giáo

sửa

Xét theo khía cạnh triết học, lý thuyết của Kỳ Na giáo bao gồm ít nhất bốn lãnh vực căn bản

  • Vũ trụ luận,
  • Tri thức luận,
  • Luận lý học
  • Đạo đức học

Tuy các lời giảng của Mahavira được chính ông và các tín đồ quả quyết có giá trị vĩnh cửu, ta cũng nên đặt chúng vào bối cảnh đương thời vốn đối nghịch với chúng để có thể đánh giá chúng một cách xứng đáng.

Hình thành và phát triển kỳ na giáo

sửa

Triết học Lokoyata -Sống trong thực tại

sửa

Triết học Lokoyata được gọi theo danh xưng của triết gia chủ xướng có tên là Carvaka cho rằng

Toàn bộ tri thức đặt cơ sở tối hậu trên các giác quan, do đó, chỉ những gì con người có thể tri giác theo cách ấy mới được xem là thật

Vì thế, Carvaka quả quyết rằng

Không thể nào có linh hồn và cũng chẳng có cái gì còn sống sau khi ta chết .

Từ lập trường ấy, truyền thống Lokoyata rút ra kết luận thuận lý rằng

Cuộc theo đuổi duy nhất có giá trị là mưu tìm hạnh phúc trần thế ngay trong cuộc đời này

Như thế, Carvaka đưa ra một lập trường mang tính chủ nghĩa khoái lạc đơn thuần và chủ nghĩa duy vật phi luân lý.

Triết học Shramana - Tu thân đắc đạo

sửa

Thế nhưng có một số người khác được gọi là Shramana lại đi tới một cực đoan hoàn toàn trái ngược với Lokoyata.

Vẫn nhấn mạnh bản tính hằng cửu của linh hồn, nhưng họ thách đố thẩm quyền của các lễ tế Bà la môn, và họ dấn mình vào lối tu tập khổ hạnh như một phương thế nhằm sở đắc giải thoát (moksa) .

Shramana các đạo sư lang thang và những tu sĩ khổ hạnh tự do. Hoàn toàn không thuộc một triết hệ Ấn giáo chính thống nào, họ sống lưu động rày đây mai đó, thu thập tín đồ từ Ấn giáo cải đạo hoặc của các môn phái phi chính thống khác và họ hoạt động bên ngoài kiểu thức chính thống của các nghi lễ Ấn giáo cùng hệ thống đẳng cấp của xã hội Ấn. Vào thế kỷ thứ 6, từ bên trong các nhóm Shramana ấy phát sinh hai triết thuyết và trở thành hai tôn giáo: Kỳ Na giáoPhật giáo.

Vị tổ sư thứ 23 Parsva

sửa
 

Trong Nghi Quỹ Kinh còn gọi là Kiếp Ba Kinh của Kỳ Na giáo, có ghi chép về vị tổ sư thứ 23 với danh xưng của ông là Parsva sống vào khoảng thế kỷ 9 trước CN, trước Mahavira khoảng 250 năm. . Vị tổ đời thứ 23 này dùng màu xanh lam làm sắc hiệu, với biểu tượng là bảy con rắn quấn quanh đầu và ông ngồi trên mình rắn.Sách thánh của Kỳ Na giáo mô tả Parsva là ‘Vị Đệ nhất’, ‘Đấng Giác ngộ’, ‘Đấng Toàn tri’,


Thân phụ của Parsva là quốc vương xứ Benares. Thuở trẻ, Parsva từng là dũng sĩ, tham gia nhiều chiến trận. Sau ba chục năm sống tại gia, ông trở thành tu sĩ khổ hạnh lang thang suốt bảy chục năm. Ông hệ thống hoá lý thuyết trước đó của Kỳ Na giáo và đề ra năm điều cấm. Đó là không sát sinh, không lừa đảo, không trộm cướp, không tà dâm và không chiếm làm của riêng . Hành cước của ông từ Bihar tới Tay Bengal, có rất đông đảo tín đồ đi theo. Parsva nhập Niết Bàn và tịch tại núi Sammeta, trở thành thánh địa hành hương của giáo chúng xưa nay.

Tổ sư thứ 24 Vardhamana Mahavira

sửa

Tổ sư Kỳ Na giáo thứ 24Vardhamana Mahavira người sáng lập ra Kỳ na giáo là một tu sĩ khổ hạnh khỏa thân sống và giảng dạy tại một khu vực của Ấn ngày nay là Bihar và Uttar Pradesh. Ông chào đời có lẽ trước Đức Phật khoảng vài chục năm. Các tín đồ Kỳ Na giáo đưa ra thời điểm của Mahavira là từ năn 599 tới 527 trước CN, dù thực tế, có thể ông sống trong khoảng thời gian sau đó, từ năm 540 tới năm 468 trước CN; so với thời điểm của Đức Phật là khoảng năm 566 tới 486 trước CN.

Xuất thân từ một dòng họ nổi tiếng, thuộc đẳng cấp chiến sĩ, ở vùng hạ lưu sông Hằng, ông lập gia đình và có một con gái. Tới năm 30 tuổi, Vardhamana rời gia đình, từ bỏ vợ con, dấn thân vào cuộc sống khổ hạnh và khỏa thân. Con đường tầm đạo của ông kéo dài 12 năm trời mới thành đạo. Trong thời gian ấy, có thời ông hiệp đoàn với Gosaka, người về sau sáng lập Ajivikas, một hệ phái Ấn giáo phi chính thống khác.

Tới năm 42 tuổi, Vardhamana, thành tựu toàn tri — thuật ngữ Kỳ Na giáo dùng để gọi sự thức ngộ, giác ngộ, vì thế được gọi là một Jina: người chinh phục. Các tín đồ của tôn giáo này được gọi là Jaina — thường viết tắt là Jain — nghĩa là những kẻ đi theo người chinh phục. Danh hiệu Mahavira có nghĩa là Đại Anh hùng, một biệt danh dùng để tôn vinh cá biệt vị tổ sư này.

Kết thúc 30 năm rao giảng, xây dựng và phát triển Kỳ Na giáo, Mahavira từ trần sau một cuộc tuyệt thực cho tới chết tại Para, nơi gần Patna ngày nay. Và nơi ấy từ đó trở thành linh địa hành hương của mọi tín đồ Kỳ Na giáo. Cho tới thời điểm nhập diệt, Đức Mahavira có rất đông đảo đệ tử gồm hai dạng: thứ nhất nam nữ tu sĩ (nữ đông hơn nam); và thứ hai các tín đồ tại gia (cư sĩ), luôn luôn giúp đỡ mọi mặt, đặc biệt về vật chất, cho giới tu sĩ.

Giáo quy Kỳ na giáo

sửa

Ngũ giới luật

sửa

5 luật nghiêm cấm vi phạm

  1. không sát sinh
  2. không lừa đảo
  3. không trộm cướp
  4. không tà dâm
  5. không chiếm đoạt làm của riêng

Quy định

sửa

Quy định Tu sĩ

sửa

Muốn trở thành tu sĩ phải thực hành 22 khổ ải như

Kềm chế cơn đói, khát .
Chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết nóng, lạnh .
Chấp nhận môi trường thiên nhiên cho muỗi đốt, ruồi bu .
Đối với cơ thể khống chế sự khát vọng về quyền lực, danh vọng, thù ghét, yêu thương và chối bỏ hoàn toàn nhục dục

Quy định trong đạo

sửa
  • Ăn chay
  • Khỏa thân
  • Sống với tự nhiên
  • Không còn tham vọng ( tham quan quyền, danh vọng , tham khoái lạc dục vọng , yêu thương thù ghét ...
  • Cẩn trọng trong ngôn từ.
  • Cẩn trọng trong suy tư.
  • Thận trọng khi đi đứng.
  • Tập trung khi nâng vật lên hoặc để vật xuống.
  • Khi ăn uống, phải quan sát thức ăn và nước uống.
  • Từ bỏ tất cả những sở hữu thế tục.
  • Để cho ngũ giác quan thỏa mãn là một tội lỗi.
  • Mỗi năm ẩn cư 3 tháng mùa mưa.
  • Chấp nhận thức ăn từ sự hỷ cúng của thế gian.
  • Mặc đồ khác biệt với xã hội.
  • Ăn chay tuyệt đối.

Nguyên tắc sống

sửa

3 nguyên tắc sống Niềm tin, Tri thức , Đức hạnh

sửa
  1. Niềm tin không thay đổi.
  2. Tri thức hiểu biết sâu sắc.
  3. Ðức hạnh sáng ngời.


4 công quả đời người

sửa
  1. Công đức của tôn giáo (dharma) - Thực hành việc công đức
  2. Thịnh vượng (artha) - Phát triển cực thịnh
  3. An lạc (kāma) - An bình trong bản thân
  4. Giải thoát (moksha) - Thoát khỏi khổ luân hồi


7 Chế ngự bản thân

sửa

Muốn chế ngự bản thân, phải có phương pháp tự kiềm chế các loại ham muốn và dục vọng. Phương pháp tích cực thuộc về sự chỉ dẫn theo nguyên tắc mà các vị tổ đã trải qua, có như vậy mới hướng được đạo tâm phát triển.

  1. Mạng
  2. phi mạng (linh hồn và phi linh hồn)
  3. Lậu nhập (nghiệp vào linh hồn của con người)
  4. Lậu hoặc (trói buộc ngăn không cho con người giải thoát)
  5. Chế ngự.
  6. Tĩnh tâm
  7. Giải thoát

Triết học Kỳ na giáo

sửa

Cũng giống các triết thuyết Đông phương khác, người Kỳ Na giáo cho mục đích của đời người

Không phải là suy tưởng mà là giải thoát

Do đó,

Dựa vào kinh nghiệm trong cuộc sống mà ứng xử

Kinh sách Kỳ na giáo

sửa