Phật giáo (chữ Hán: 佛教 - chữ Phạn: बुद्ध धर्म) hay Đạo Phật là một tôn giáo Ấn độ được hình thành vào khoảng thế kỉ thứ 4 đến thế kỉ thứ 6 trước công nguyên bởi thái tử người Ấn độ tênTất-đạt-đa Cồ-đàm . Tất-đạt-đa Cồ-đàm thường được gọi là Bụt hay Phật có nghỉa là người giác ngộ, người tỉnh thức, người đắc đạo có hiểu biết tận tường không sa ngã không vướng víu trong trầm luân dau khổ. Phật giáo là một tôn giáo có một hệ thống triết học bao gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội, bản chất sự vật và sự việc .

Tất-đạt-đa Cồ-đàm sửa

 

Tất-đạt-đa Cồ-đàm (Thái tử người Ấn độ) sinh ra ở Lâm-Tỳ-Ni ở đồng bằng miền Trung, thuộc Nepal, là con trai của Tịnh Phạn - thủ lĩnh dân Shakya tại Kapilvastu. Sau khi tu khổ hạnh và thiền định theo kiểu thực hành Samana, Đức Phật đã khám phá ra Trung đạo của Phật giáo, một con đường điều độ từ những thái cực của sự sa ngã và tự hành xác.

Ngộ đạo sửa

Tất-đạt-đa Cồ-đàm đạt được giác ngộ khi ngồi dưới một cây bồ đề, tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ. Tất-đạt-đa, từ đó về sau, được gọi là"người tự Giác Ngộ hoàn hảo", hay Phật. Đức Phật đã được sự bảo trợ của nhà cai trị Magadha, vua Tần-bà-sa-la. Vị hoàng đế chấp nhận Phật giáo là đức tin cá nhân và cho phép thành lập "tịnh xá" Phật Giáo. Điều này cuối cùng dẫn đến việc thay đổi tên của toàn bộ vùng này thành Bihar.

Sáng lập ra Phật giáo sửa

Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập ra Phật giáo, thuyết giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 45 năm theo Phật giáo Nam tông (hoặc 49 năm theo Phật giáo Bắc tông) khi Đức Phật còn tại thế ra đến nhiều nơi, nhiều dân tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức, nghi lễ hay phương pháp thực tập, tu học.

Ngay từ buổi đầu, Đức Phật đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Tại Ấn Độ, Phật giáo có thể đã bắt đầu suy tàn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ từ đầu thế kỉ thứ 13 bởi sự đàn áp mạnh của chính quyền và quân Hồi giáo bên ngoài. Mãi đến giữa thế kỉ thứ 20 . Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Ấn Độ mới bắt đầu nhờ công của 1 nhà hoạt động chính trị-xã hội và nhà kinh tế học người Ấn Độ tên là Bhimrao Ambedkar. Tuy nhiên, Phật giáo lại phát triển mạnh ở những nước lân cận. Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc, Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

Nhờ vào tính chất khai sáng cùng sự uyển chuyển, linh hoạt của triết lý, Phật giáo được nhiều người tiếp nhận và có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều tầng lớp giai cấp, nhiều phong tục tập quán ở các thời kỳ, đất nước khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ, Canada, Úc và châu Âu. Triết lý Phật giáo phù hợp với tinh thần khai sáng của châu Âu nên nhiều nhà triết học ở đây chú ý nghiên cứu Phật giáo và truyền bá nó. Trong thời Đức Phật còn tại thế thì những người xuất gia theo Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng Đoàn, trực tiếp được sự hướng dẫn của Đức Phật về giáo pháp và phương thức thực hành, tu tập. Tăng Đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, thân thế, giai cấp xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên.

Giới luật của Tăng Đoàn dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và quy củ nên Tăng Đoàn tránh được nhiều chia rẽ.

Ngoài những người xuất gia, Đức Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ. Giới cư sĩ cũng được Đức Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ Tăng Đoàn về nhiều mặt. Khi Đức Phật còn tại thế. Ông là một nhà triết học, một vị chân sư còn các tu sĩ và quần chúng nhân dân là học trò của ông. Chỉ sau khi ông nhập niết-bàn thì Phật giáo mới hình thành với hệ thống giáo lý là những lời dạy của Đức Phật, giáo hội được các đệ tử của Đức Phật thành lập, giáo chúng là những người tin vào lời dạy của Đức Phật và tôn kính Đức Phật.

Đắc đạo sửa

Ngay sau khi thành đạo dưới cội cây Bồ-đề (Bodhi) ở tại Bồ-đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 590 TCN theo Phật giáo Nam tông hay năm 595 TCN theo Phật giáo Bắc tông, Đức Phật đã quyết định thuyết giảng lại sự hiểu biết của mình.

Thuyết giảng sửa

Tại khu vực bảo tồn nước công viên hưu gần Varanasi ở miền bắc Ấn Độ, Đức Phật bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân"cho nhóm năm người, mà trước đây ông đã tìm cách giác ngộ. Năm vị Tỳ-kheo đó trở thành năm đệ tử đầu tiên của ông và là hạt nhân đầu tiên của Tăng-già, một trong"Ba ngôi báu"hay Tam bảo, ba cơ sở chính của Phật giáo: Phật, Pháp, Tăng, tức là bậc giác ngộ, giáo pháp của bậc giác ngộ và những người bạn đồng học. Trong những năm còn lại của cuộc đời mình, Đức Phật được cho là đã đi du lịch ở đồng bằng Bắc Ấn Độ sông Hằng và các vùng khác. Đức Phật đã đạt được Niết Bàn tại Kushinagar.

Bài kinh đầu tiên mà Đức Phật thuyết giảng đó là Kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana Sutta)[10] giáo hóa nhóm có năm vị Tỳ-kheo (Bhikkhu) trở thành A-la-hán (Arahant): Kiều-trần-như (Koṇḍañña) trưởng nhóm, Vappa, Bhaddiya, Mahānāma và Assaji tại vườn phóng sinh nai tên gọi Vườn Lộc Uyển (Mrigadava) gần kinh thành Ba-la-nại (Bārāṇasī). 100 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Đức Phật đã hình thành Tăng-già (hay Tăng Đoàn, saṅgha) đầu tiên.

Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và truyền bá thêm ngày càng nhiều người muốn theo thực tập và tu học. Để làm việc được với một lượng người theo thực tập và tu học ngày càng đông, Đức Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người được gọi là giới luật. Giới luật này phần chính là việc Quy y Tam bảo (Nương tựa Ba ngôi báu cao quý) - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Đức Phật, những lời dạy của Đức Phật (Giáo Pháp), và cộng đồng những người xuất gia thực hành theo lời dạy của Đức Phật (Tăng Đoàn).

Từ trần sửa

Sau khi Phật từ trần , các tôn giả thay ông lãnh đạo giáo hội. Ông tập hợp tổ chức các Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo


Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo sửa

Phật giáo hình thành sửa

Phật giáo được Tất-đạt-đa Cồ-đàm sáng lập và thuyết giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 45 năm theo Phật giáo Nam tông (hoặc 49 năm theo Phật giáo Bắc tông) khi Đức Phật còn tại thế ra đến nhiều nơi, nhiều dân tộc nên lịch sử phát triển của Phật giáo khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức, nghi lễ hay phương pháp thực tập, tu học. Ngay từ buổi đầu, Đức Phật đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Tại Ấn Độ .

Phật giáo suy sụp sửa

Phật giáo có thể đã bắt đầu suy tàn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn Độ vào thế kỉ thứ 14 do sự đàn áp của các chính quyền Hồi giáo.

Phật giáo chấn hưng sửa

Mãi cho đến thế kỉ thứ 21 thì phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn mới bắt đầu lại. Tuy nhiên, Phật giáo lại phát triển mạnh ở những nước lân cận. Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc, Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

Nhờ vào tính chất khai sáng cùng sự uyển chuyển, linh hoạt của triết lý, Phật giáo được nhiều người tiếp nhận và có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều tầng lớp giai cấp, nhiều phong tục tập quán ở các thời kỳ, đất nước khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ, Canada, Úc và châu Âu. Triết lý Phật giáo phù hợp với tinh thần khai sáng của châu Âu nên nhiều nhà triết học ở đây chú ý nghiên cứu Phật giáo và truyền bá nó.

===Đức

Giáo lý Phật giáo sửa

Tứ diệu đế sửa

Tứ diệu đế là sự nhận thức đúng đắn các loại khổ đau, nguyên nhân dẫn đến khổ đau, trạng thái không có khổ đau và con đường để thoát đau khổ. Khi con người được Giải thoát là khi con người đạt đến canh giới Giác ngộ không còn buộc ràng bởi khổ trong vòng luân hồi

  • Khổ đế (苦諦་), chân lý về sự Khổ
đau trên thân gồm: sinh, lão, bệnh, tử; khổ tâm gồm: sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa nhận nó, cố gắng phân tích nó để nhận thức nó một cách sâu sắc.
  • Tập đế (集諦་), chân lý về sự phát sinh của khổ
khổ đau đều có nguyên nhân thường thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan nằm trong 12 nhân duyên.
  • Diệt đế (滅諦), chân lý về diệt khổ
là trạng thái không có đau khổ, là một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt dục vọng và chấm dứt vô minh.
  • Đạo đế (道諦), chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ
Phương pháp để đi đến sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh (Bát chính đạo) và xoay quanh ba trụ cột chính là Trí tuệ - Đạo đức - Thiền định. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu con đường bát chi thánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.

Bát chánh đạo sửa

Bát chánh đạo (ja. hasshōdō, sa. aṣṭāṅgika-mārga, pi. aṭṭhāṅgika-magga, bo. `phags lam yan lag brgyad འཕགས་ལམ་ཡན་ལག་བརྒྱད་) là con đường tám nhánh để giải thoát khỏi Khổ (sa. duḥkha), là chân lí cuối cùng của Tứ diệu đế. Bát chánh đạo là một trong 37 Bồ-đề phần) hay 37 giác chi (sa. bodhipākṣika-dharma). Bát chánh đạo được chú giải rõ qua dịch phẩm " Con Đường Cổ Xưa " .“Con Ðường Cổ Xưa” đã cố gắng giúp người học Phật tập chú vào những điểm giáo lý cốt lõi nhất đã được tất cả các Tông phái công nhận như là điểm chung đồng và thuần túy nhất của đạo Phật. Thông suốt được những điểm giáo lý này có thể được xem như đã thâm nhập toàn bộ con đường giác ngộ giải thoát của Ðức Phật.


Bát chánh đạo bao gồm:

  1. Chánh kiến (pi. sammā-diṭṭhi, sa. samyag-dṛṣṭi, bo. yang dag pa`i lta ba ཡང་དག་པའི་ལྟ་བ་): Gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã.
  2. Chánh tư duy (pi. sammā-saṅkappa, sa. samyak-saṃkalpa, bo. yang dag pa`i rtog pa ཡང་དག་པའི་རྟོག་པ་): Tư duy về xuất ly, tư duy về vô sân, tư duy về vô hại.
  3. Chánh ngữ (pi. sammā-vācā, sa. samyag-vāk, bo. yang dag pa`i ngag ཡང་དག་པའི་ངག་): Từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm.
  4. Chánh nghiệp (pi. sammā-kammanta, sa. samyak-karmānta, bo. yang dag pa`i las kyi mtha` ཡང་དག་པའི་ལས་ཀྱི་མཐའ་): Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ phi Phạm hạnh.
  5. Chánh mệnh (pi. sammā-ājīva, sa. samyag-ājīva, bo. yang dag pa`i `tsho ba ཡང་དག་པའི་འཚོ་བ་): Tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh (giết hại sinh vật) như đồ tể, thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện. Tự nuôi sống mình bằng nghề nghiệp chân chánh.
  6. Chánh tinh tấn (pi. sammā-vāyāma, sa. samyag-vyāyāma, bo. yang dag pa`i rtsal ba ཡང་དག་པའི་རྩལ་བ་): Tinh tấn, cố gắng ngăn chặn những điều bất thiện sanh khởi, diệt trừ các điều bất thiện đã sanh khởi, làm cho các điều thiện sanh khởi, phát triển các điều thiện đã sanh khởi.
  7. Chánh niệm (pi. sammā-sati, sa. samyak-smṛti, bo. yang dag pa`i dran pa ཡང་དག་པའི་དྲན་པ་): Chánh niệm, tỉnh giác trên tứ niệm xứ: thân, thọ, tâm, pháp
  8. Chánh định (pi. sammā-samādhi, sa. samyak-samādhi, bo. yang dag pa`i ting nge `dzin ཡང་དག་པའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་): Tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế gian (sa. arūpa-samādhi).

Bát chánh đạo không nên hiểu là những "con đường" riêng biệt. Theo Ba môn học, hành giả phải thực hành Giới (pi. sīla, sa. śīla, các chánh đạo từ thứ 3 tới thứ 5), sau đó là Định (pi., sa. samādhi, các chánh đạo từ thứ 6 đến thứ 8) và cuối cùng là Tuệ (pi. paññā, sa. prajñā, các chánh đạo số 1 và 2). chánh kiến 1 là điều kiện tiên quyết để đi vào Chánh đạo (sa. āryamārga) và đạt tới Niết-bàn.

Theo Luận sư Thanh Biện (sa. bhāvaviveka) giải thích như sau:

  1. Chánh kiến là tri kiến về Pháp thân (Tam thân).
  2. Chánh tư duy là từ bỏ mọi chấp trước.
  3. Chánh ngữ là thấu hiểu rằng pháp vượt trên mọi ngôn ngữ.
  4. Chánh nghiệp là tránh mọi hành động tạo nghiệp, kể cả thiện nghiệp.
  5. Chánh mệnh là tri kiến rằng, tất cả các Pháp (sa. dharma, pi. dhamma) không hề sinh thành biến hoại.
  6. Chánh tinh tấn là an trú trong tâm thức vô sở cầu.
  7. Chánh niệm là từ bỏ mọi thắc mắc về có-không (hữu-vô).
  8. Chánh định là giữ tâm vô phân biệt bằng cách vô niệm.

Học thuyết Phật giáo sửa

Luật Nhân Quả sửa

Nhân tiếng Hán việt có nghỉa là nguyên nhân . Quả tiếng Hán việt có nghỉa là hậu quả , kết quả về sau . Luật nhân quả của Phật tổ cho rằng

Mọi hậu quả đều có một nguyên nhân gây ra nó - Có nhân thì có quả .

Thí dụ

Thí dụ Ý nghỉa Nguyên nhân Hậu quả
Có lửa thì có khói Khói là nguyên nhân gây ra Lửa Lửa Khói
Có chí thì nên Có chí khí thì việc sẽ thành Chí khí Việc thành
Máu chảy , ruột mềm Máu chảy làm mềm ruột Máu chảy Ruột mềm
Môi hở, răng lạnh Khi môi hở răng sẽ lạnh Môi hở Răng lạnh


Khổ sửa

Khổ có nghỉa là khó khăn gặp phải trong cuộc sống hằng ngày như bệnh tật, già yếu lão nhược, thiếu thốn về vật chất, vất vả về thể xác , đau đớn về tinh thần , lỗi lầm gây ra , tội phạm , ...

Đức Phật dạy

Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có nguyên nhân (Tập đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế), và Bát chính đạo - con đường diệt khổ (Đạo đế) .

Phật cho rằng

Đời là bể khổ . Mọi khổ đều có nguyên nhân . Mọi khổ đều có thể dập tắt . Mọi khổ đều có đường lối diệt khổ .

Bệnh sửa

Bệnh sanh khi cơ thể bị ô nhiểm có những triệu chứng khác thường hay cơ thể mất cân bằng âm dương trong cơ thể

Trong việc chuẩn bệnh và trị bệnh , Đông y dựa vào Tứ chẩn , khai thác các triệu chứng bệnh . Căn cứ vào Bát cương để bệnh tật được quy thành các hội chứng thiên thắng hay thiên suy về âm dương của các tạng phủ kinh lạc…

Tứ chẩn

  1. Vấn chẩn . Hỏi bệnh nhân triệu chứng bệnh
  2. Văn chẩn . Lắng nghe bệnh trạng từ bệnh nhân
  3. Vọng chẩn . Quan sát và phát hiện các biểu hiện của bệnh ( các triệu chứng khác thường, ô nhiểm ...)
  4. Thiết chẩn . Khám bằng tay và dụng cụ để xác định bệnh trạng.

Bát cương . Chẩn đoán Đông y dùng 8 cương lĩnh Để đánh giá vị trí nông sâu của bệnh, tính chất bệnh, trạng thái người bệnh và xu thế trung nhất của người bệnh

  1. Biểu- lý
  2. Hư – thực
  3. Hàn – nhiệt
  4. Âm – dương

Trong đó âm và dương là hai cương lĩnh tổng quát nhất gọi là tổng cương; thường bệnh ở biểu là thực, nhiệt thuộc về dương; bệnh ở lý là hàn , là hư thuộc về âm.

Đông y trị bệnh bằng các phương pháp sau

  1. Cạo gió
  2. Giác hơi
  3. Cắt nẻ
  4. Châm cứu
  5. Xoa bóp
  6. Xông hơi
  7. Dùng thuốc

Lễ hội Phật giáo sửa

Lễ Phật đản sửa

Phật Đản (chữ Nho 佛誕 - nghĩa là ngày sinh của đức Phật) hay là Vesak (tiếng Phạn: Vaiśākha, Devanagari: वैशाख, Sinhala: වෙසක් පෝය) là ngày kỷ niệm Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 15 tháng 4 âm lịch hàng năm.

Lễ Vu lan sửa

Vu lan (chữ Hán: 盂蘭, bính âm: Zhōngyuán Jié; sa. ullambana), còn được hiểu là lễ báo hiếu, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo (Đại thừa Bắc tông) và phong tục Trung Hoa. Lễ này trùng với Tết Trung nguyên của người Hán,

Xuất phát từ sự tích về Đại Đức Mục Kiền Liên (một trong 2 đại đệ tử của Phật Thích Ca) với lòng đại hiếu đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ. Vu Lan là ngày lễ hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung) - cha mẹ của kiếp này và của các kiếp trước.

Theo kinh Vu Lan thì ngày xưa, Mục Kiền Liên đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẹ ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận địa ngục để dâng mẹ. Tuy nhiên nghiệp ác đã đến lúc phải trả quả thì không ai có thể ngăn cản được, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ.

Cũng theo kinh Vu-Lan-bồn, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: "Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương, hồi hướng công đức để tiêu trừ nghiệp ác mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó".

Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát. Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng theo cách này (Vu-Lan-Bồn Pháp). Từ đó, ngày lễ Vu-lan ra đời.

Lễ cô hồn sửa

Cúng cô hồn, cúng vong linh là một hoạt động tâm linh tương đối phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam với việc thực hiện các nghi thức cúng tế cho các cô hồn, thường là vào tháng Bảy âm lịch, trong dịp lễ Tết Trung Nguyên (Vu-lan). Ngày Rằm tháng 7 Xá tội vong nhân của phong tục Á Đông. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, ân xá cho vong nhân nên có lễ cúng cô hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh không nhà cửa không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương thế để thờ cúng, và là ngày mọi tù nhân ở địa ngục có cơ hội được xá tội, được thoát sanh về cảnh giới an lành. Vào "tháng cô hồn" tháng 7 âm lich,

Tín ngưỡng cổ truyền tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể về trời, hoặc đầu thai kiếp khác (làm người hoặc vật), hoặc bị đày xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống. Tuy nhiên, dân gian cũng tin rằng, nếu một người bị chết oan hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn không (hoặc chưa) được cõi nào tiếp nhận, phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống.

Lễ Thanh minh sửa

Cúng mộ tổ tiên . Nói đến Tết Thanh minh thì bao giờ người ta cũng nghĩ đến lễ tảo mộ và hội đạp thanh. Tại Việt Nam các tỉnh Bắc bộ và cộng đồng người gốc Hoa thì ăn tết này theo ngày tiết Thanh minh như Trung Quốc, từ các tỉnh Thanh Hóa trở vào Trung bộ vẫn ăn tết Thanh Minh theo truyền thống vào ngày 3 tháng 3 âm lịch.