Sách Đại học/Tri Quốc Bình Thiên Hạ
Trang này được đề nghị xóa nhanh với lý do: Copyright Violation |
- Tiết thứ 1
Sở vị bình thiên hạ tại trị kỳ quốc giả ,thượng lão lão nhi dân hưng hiếu; thượng trưởng trưởng nhi dân hưng đễ; thượng tuất cô nhi dân bất bội; thị dĩ quân tử hữu hiệt củ chí đạo dã.
所谓平天下在治其国者,上老老而民 孝,上长长而民兴弟,上恤孤而民不 ,是以君子有絜矩之道也。
Dịch nghĩa: Nói rằng bình trị thiên hạ, trước tiên ở trị lí quốc gia. Là bởi vì nếu nhà vua tôn kính người già, thì dân chúng sẽ dấy lên phong khí hiếu kính; nếu nhà vua trọng người huynh trưởng, thì dân chúng sẽ dấy lên phong khí đễ nhượng; nếu nhà vua thương xót kẻ cô độc thì dân chúng sẽ không rời bỏ. Vì thế người quân tử có cái "đạo hiệt cử" vậy.
- Tiết thứ 2
Sở ố ư thượng, vô dĩ sử hạ; sở ố ư hạ, vô dĩ sự thượng; sở ố ư tiền, vô dĩ tiên hậu; sở ố ư hậu, vô dĩ tòng tiền; sở ố ư hữu, vô dĩ giao ư tả; sở ố ư tả, vô dĩ giao ư hữu; thử chi vị hiệt củ chi đạo.
所恶于上,毋以使下,所恶于下,毋 事上;所恶于前,毋以先后;所恶于 ,毋以从前;所恶于右,毋以交于左 ;所恶于左,毋以交于右;此之谓絜 之道。
Dịch nghĩa: Điều gì mình chán ghét ở người trên [của mình], thì chớ đem điều đó mà sai khiến người dưới; điều gì mình chán ghét ở người dưới [của mình] thì chớ đem điều đó mà thờ người trên; điều gì mình chán ghét ở người trước mình, thì chớ đem điều đó mà đối xử với người sau mình; điều gì mình chán ghét ở người sau mình thì chớ đem điều đó mà đối xử với người trước mình; điều gì mình chán ghét ở người bên hữu mình, thì chớ đem điều đó mà giao vãng với người bên tả mình; điều gì mình chán ghét ở người bên tả mình, thì chớ đem điều đó mà giao vãng với người bên hữu mình. Như thế gọi là "đạo hiệt cử".
- Tiết thứ 3
Thi vân: "Lạc chỉ quân tử, dân chi phụ mẫu"; dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi, thử chi vị dân chi phụ mẫu.
《诗》云:“乐只君子,民之父母。 民之所好好之,民之所恶恶之,此之 民之父母。
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói: "Vui thay người quân tử, là cha mẹ của dân". Điều gì dân thích, thì mình thích, điều gì dân ghét, thì mình ghét. Như vậy thì gọi là cha mẹ dân. (Thi. Tiểu nhã. Nam Sơn hữu đài, chương 2, câu 3-4).
- Tiết thứ 4
Thi vân: Tiệt bỉ Nam sơn, duy thạch nham nham; hách hách sư doãn, dân cụ nhĩ chiêm; hữu quốc giả, bất khả dĩ bất thận, tịch tắc vi thiên-hạ lục hỹ.
《诗》云:“节彼南山,维石岩岩。 赫师尹,民具尔瞻。”有国者不可以 慎,辟则为天下僇矣。
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói: "Núi Nam cao vòi vọi kia, chỉ có đá trập trùng. Quan Thái sư họ Doãn hiển hách. Dân chúng đều trông ngóng vào ngài". Người cai trị quốc gia không thể không thận trọng, một khi xa rời chính đạo tất sẽ bị thiên hạ trừng phạt. (Thi Tiểu nhã. Tiệt Nam sơn, chương 1, câu 1-4).
- Tiết thứ 5
Thi vân: "Ân chi vị táng sư, khắc phối Thượng đế, nghi giám vu n, tuấn mệnh bất dị"; đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc.
Dịch nghĩa: Kinh Thi nói: "Khi nhà Ân chưa mất dân chúng, thì đạo đức phù hợp với Thượng đế. Nên soi vào [tấm gương diệt vong của] nhà Ân, [để biết rằng giữ được] mệnh Trời là không dễ". Đạo trị nước: được dân chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước. (Thi Đại nhã. Văn Vương, chương 6, câu 5-8).
- Tiết thứ 6
Thị cố quân tử tiên thận hồ đức; hữu đức thử hữu nhân; hữu nhân thử hữu thổ, hữu thổ thử hữu tài; hữu tài thử hữu dụng.
是故君子先慎乎德。有德此有人,有 此有土,有土此有财,有财此有用。
Dịch nghĩa: Vì thế người quân tử trước hết cẩn thận về đức, có đức tất thì mới có được nhân dân, có nhân dân mới có được đất đai; có đất đai mới có được của cải; có của cải mới có thể sử dụng.
- Tiết thứ 7
Đức giả bản dã, tài giả mạt dã; ngoại bản, nội mạt, tranh dân thi đoạt.
德者本也,财者末也。外本内末,争 施夺。
Dịch nghĩa: Đức là cái gốc, của là cái ngọn. Để cái gốc ra ngoài (coi thường cái đức) để cái ngọn vào trong (coi trọng của cải) thì sẽ phải tranh dân đoạt lợi.
- Tiết thứ 8
Thị cố tài tụ tắc dân tán, tài tán tắc dân tụ; thị cố ngôn bội nhi xuất giả diệc bội nhi nhập; hoá bội nhi nhập giả diệc bội nhi xuất.
是故财聚则民散,财散则民聚。是故 悖而出者,亦悖而入;货悖而入者, 悖而出。
Dịch nghĩa: Vì thế [chỉ chăm lo] tích tụ của cải, thì dân chúng sẽ li tán, của cải phân tán [ra cho dân] thì dân chúng sẽ tụ họp. Vì thế nói ra với dân chúng những lời trái lẽ, thì sẽ thu về những sự trái nghịch, thu về những của cải bằng thủ đoạn bội nghịch, thì cũng sẽ bị người ta dùng thủ đoạn bội nghịch mà tước đoạt đi (của vào trái lẽ thì cũng ra một cách trái lẽ).
- Tiết thứ 9
Khang Cáo viết: duy mệnh bất vu thường Đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ.
《康诰》曰:“惟命不于常。”道善 得之,不善则失之矣。
Dịch nghĩa: Thiên Khang cáo nói: "Mệnh trời chẳng phải mãi mãi bất biến". Đạo Trời là: người thiện thì được mệnh Trời, người bất thiện thì mất mệnh Trời vậy.
- Tiết thứ 10
Sở thư viết: Sở quốc vô dĩ vi bảo, duy thiện dĩ vi bảo. Cữu Phạm viết: vong nhân vô dĩ vi bảo, nhân thân dĩ vi bảo.
《楚书》曰:“楚国无以为宝,惟善 为宝。”舅犯曰:“亡人无以为宝, 亲以为宝。”
Dịch nghĩa: Sở thư nói: "Nước Sở chẳng có cái gì đáng gọi là của quý, chỉ có đức thiện đáng coi là của quý". Cữu Phạm cũng nói: "Người lưu vong không có cái gì đáng gọi là của quý, chỉ có phẩm đức nhân ái hiếu kính đáng coi là của quý mà thôi".
- Tiết thứ 11
Tần-thệ viết: Nhược hữu nhất cá thần, đoán đoán hề vô tha kỹ, kỳ tâm hưu hưu yên, kỳ như hữu dung yên, nhân chi hữu kỹ, nhược kỷ hữu chí, nhân chí ngạn thánh, kỳ tâm hiếu chi, bất sỉ nhược tự kỳ khẩu xuất, thực năng dung chi, dĩ năng bảo ngã tử tôn lê dân, thượng diệc hữu lợi tai!
《秦誓》曰:“若有一个臣,断断兮 他技,其心休休焉,其如有容焉。人 有技,若己有之;人之 彦圣,其心好之,不啻若自其口出。 能容之,以能保我子孙黎民,尚亦有 哉!
Dịch nghĩa: Thiên Tần thệ nói: Nếu như có được một đại thần thật thà thành khẩn, chẳng hề có tài năng gì khác, chỉ có tấm lòng khoan hòa, như có một lượng chứa lớn, thì tài năng của người khác, khác nào như đại thần ấy có tài năng; đức tốt của người khác đại thần ấy thật lòng ưa thích, chẳng những là tự miệng nói ra, mà thực sự có thể dung nạp, nên có thể che chở cho con cháu và trăm họ của ta, mà còn có lợi cho cả đất nước!
Nhân chi hữu kỹ, mạo tật dĩ ố chi: nhân chi ngạn thánh nhi vi chi, tỷ bất thông, thực bất năng dung, dĩ bất năng bảo ngã tử tôn lê dân, diệc viết đãi tai.
人之有技,媢嫉以恶之;人之彦圣, 违之,俾不通:实不能容,以不能保 子孙 黎民,亦曰殆哉!”
Dịch nghĩa: [Còn nếu] người khác có tài, đem lòng ghen ghét đố kị, người khác có đức tốt, thì chèn ép không để cho tiếp cận với nhà vua. Người như vậy thì không thể dung nạp ai, bởi thế người ấy chẳng thể chở che cho con cháu trăm họ của ta, mà còn nguy hại cho cả đất nước.
Duy nhân nhân phóng lưu chi, bình chư tứ di, bất dữ đồng trung quốc; thử vị duy nhân nhân vi năng ái nhân, năng ố nhân.
唯仁人放流之,迸诸四夷,不与同中 。此谓唯仁人为能爱人,能恶人。
Dịch nghĩa: Người nhân phải đem hạng người đố kị ấy mà đày đi xa, đuổi chúng đến tứ di, không cho chúng được cùng ở đất Trung Nguyên. Đó chính là "chỉ có người nhân mới có thể biết yêu người, mới có thể biết ghét người".
- Tiết thứ 12
Kiến hiền nhi bất năng cử, cử nhi bất năng tiên, mạn giã. Kiến bất thiện nhi bất năng thoái; thoái nhi bất năng viễn, quá dã. Hiếu nhân chi sở ố, ố nhân chi sở hiếu, thị vị phất nhân chi tính, tai tất đãi phù thân.
见贤而不能举,举而不能先,命也; 不善而不能退,退而不能远,过也。 人之所恶,恶人之所好,是谓拂人之 性,菑必逮夫身。
Dịch nghĩa: Thấy người hiền mà không chịu tiến cử, tiến cử mà không chịu đưa tên trước lên trên mình, như thế là khinh mạn. Thấy người xấu mà không chịu triệt thoái, triệt thoái mà không chịu xa lánh, như thế là sai trái. Ưa thích điều mà mọi người ghét, ghét bỏ điều mà mọi người ưa thích, như thế gọi là làm trái ngược với bản tính con người, tai nạn chắc chắn sẽ giáng vào thân.
- Tiết thứ 13
Thị cố quân tử hữu đại đạo, tất trung tín dĩ đắc chi kiêu thái dĩ thất chi. Sinh tài hữu đại đạo: sinh chi giả chúng, thực chi giả quả, vi chi giả tật, dụng chi giả thư, tắc tài hằng túc hỹ.
是故君子有大道,必忠信以得之,骄 以失之。生财有大道,生之者众,食 者寡,为之者疾,用之者舒,则财恒 足矣。
Dịch nghĩa: Vì thế người quân tử có đạo lớn, ắt phải có được bằng lòng trung tín, và sẽ mất đạo ấy bởi lòng kiêu ngạo và thói xa hoa. Tích tụ được của cải có một đạo lí lớn: người làm ra của cải thì đông, người hưởng thụ của cải thì ít, làm ra của cải thì chóng mà tiêu dùng của cải thì chậm. Như vậy thì của cải luôn luôn dồi dào sung túc.
- Tiết thứ 14
Nhân giả dĩ tài phát thân, bất nhân giả dĩ thân phát tài. Vị hữu thượng hiếu nhân nhi hạ bất hiếu nghĩa giả dã: vị hữu hiếu nghĩa kỳ sự bất chung giả dã: vị hữu phủ khố, tài phi kỳ tài giả dã.
仁者以财发身,不仁者以身发财。未 上好仁而下不好义者也,未有好义其 不终者也,未有府库财非其财者也。
Dịch nghĩa: Người nhân thì dùng của để phát huy thân mình; kẻ bất nhân thì đem thân mình để phát triển của cải. Chưa từng có bao giờ vua ưa thích điều nhân mà dân chúng lại không yêu điều nghĩa; cũng chưa từng có bao giờ dân chúng yêu điều nghĩa mà công việc lại không thành. Cũng chưa từng có bao giờ của cải ở trong kho lẫm lại không phải là của cải của người có của .
- Tiết thứ 15
Mạnh Hiến Tử viết: súc mã thặng bất sát ư kê đồn, phạt băng chi gia bất súc ngưu dương; bách thặng chi gia bất súc tụ liễm chi thần; dữ kỳ hữu tụ liễm chi thần, ninh hữu đạo thần; thử vị quốc bất dĩ lợi vi lợi, dĩ nghĩa vi lợi dã.
孟献子曰:“畜马乘不察于鸡豚,伐 之家不畜牛羊,百乘之家不畜聚敛之 。与其有聚敛之臣,宁有盗臣。”此 谓国不以利为利,以义为利也。
Dịch nghĩa: Mạnh Hiến Tử nói: "Trong nhà có xe có ngựa thì không xét đến [món lợi nhỏ của] việc nuôi gà nuôi lợn, trong nhà đủ sức chứa nước đá [ướp dùng lễ vật] thì không nên nuôi trâu nuôi dê. Hễ đã là quan khanh có đến trăm cỗ xe, thì không nuôi những gia thần quen thói vơ vét. Thà nuôi kẻ gia thần hay ăn trộm của mình còn hơn là nuôi kẻ gia thần thạo việc vơ vét cho mình. Đó gọi là quốc gia không nên lấy lợi làm lợi mà nên lấy nghĩa làm lợi vậy.
- Tiết thứ 16
Trưởng quốc gia nhi vụ tài dụng giả, tất tự tiểu nhân hỹ; bỉ vi thiện chi. Tiểu nhân chi sử vi quốc gia, tai hại tịnh chí, tuy hữu thiện giả, diệc vô như chi hà hỹ. Thử vị quốc bất dĩ nghĩa vi lợi, dĩ lợi vi lợi dã.
长国家而务财用者,必自小人矣。彼 善之,小人之使为国家,菑害并至。 有善者,亦无如之何矣!此谓国不以 义为利,以利为利也。
Dịch nghĩa: Đứng đầu một quốc gia mà chỉ một mực vơ vét của cải ắt là do mưu kế của kẻ tiểu nhân. Nếu nhà vua tán thưởng kẻ tiểu nhân ấy, dùng kẻ tiểu nhân ấy mà cai trị quốc gia, thì thiên tai nhân hoạ ắt sẽ cùng ùa đến. Lúc đó dẫu có người thiện đức cũng chẳng còn làm sao được nữa. Đó gọi là quốc gia không biết lấy nghĩa làm lợi mà chỉ biết lấy lợi làm lợi vậy