Nước Mỹ với cuộc nội chiến và sự tái thiết/5
Công cuộc tái thiết cấp tiến
Cả Lincoln và Johnson đều đã thấy trước rằng Quốc hội sẽ có quyền phủ nhận ghế của các nhà lập pháp bang miền Nam trong Thượng viện hay Hạ viện Mỹ căn cứ theo điều khoản của Hiến pháp cho rằng Mỗi viện sẽ là người phán quyết những tiêu chuẩn của các nghị sỹ thuộc viện đó. Điều này đã được thông qua khi dưới sự lãnh đạo của Thaddeus Stevens, các nghị sỹ được mệnh danh là những đảng viên Đảng Cộng hòa cấp tiến, những người thận trọng với công cuộc tái thiết nhanh gọn, đã từ chối sắp xếp chỗ cho các Thượng nghị sỹ và Hạ nghị sỹ của miền Nam mới được bầu. Sau đó trong vòng vài tháng tiếp theo, Quốc hội đã nhóm họp thảo ra một kế hoạch tái thiết miền Nam rất khác với kế hoạch do Lincoln đã bắt đầu và Johnson đã tiếp tục.
Sự ủng hộ rộng rãi của dư luận dần dần phát triển có lợi cho các nghị sỹ Quốc hội chủ trương những người da đen cần được trao quyền công dân hoàn toàn. Cho tới tháng 7/1866, Quốc hội đã thông qua dự luật các quyền dân sự và thành lập một Cục Phụ trách nô lệ mới được giải phóng – cả hai việc này đều nhằm ngăn ngừa sự phân biệt chủng tộc do các cơ quan lập pháp miền Nam tiến hành. Tiếp theo việc này, Quốc hội đã thông qua Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 của Hiến pháp, điều khoản này nói rằng tất cả mọi người sinh ra trên nước Mỹ hay được nhập quốc tịch Mỹ, và vì thế có quyền lợi pháp lý, đều là công dân của Hợp chủng quốc và của các bang nơi họ cư trú. Điều bổ sung sửa đổi này đã bãi bỏ luật Dred Scott vốn phủ nhận quyền công dân của nô lệ.
Tất cả các cơ quan lập pháp bang miền Nam, ngoại trừ bang Tennessee, đều đã khước từ phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi này, một số bang đồng lòng bỏ phiếu chống lại. Hơn nữa, các cơ quan lập pháp bang ở miền Nam đã thông qua nhiều bộ luật để quản lý người da đen tự do. Các luật này khác nhau ở các bang, nhưng một số điều khoản là chung. Người da đen bị đòi hỏi phải tham gia các hợp đồng lao động thường niên với những hình phạt được thực thi trong trường hợp vi phạm; trẻ em sống phụ thuộc phải bắt buộc học việc và bị chủ trừng phạt bằng roi vọt; và những người lang thang có thể bị đem bán để làm việc cho tư nhân nếu họ không thể trả các khoản tiền phạt nặng nề.
Nhiều người miền Bắc cho rằng phản ứng này của miền Nam là nỗ lực nhằm tái lập chế độ nô lệ và không công nhận chiến thắng của Liên bang trong cuộc Nội chiến. Việc Johnson, mặc dù là người ủng hộ Liên bang, là một đảng viên Đảng Dân chủ ở miền Nam với thói quen dùng từ hoa mỹ quá mức và ghét thỏa hiệp chính trị cũng không giúp giải quyết được tình hình này. Đảng Cộng hòa chiếm đa số trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1866. Sau khi có quyền lực, những người Cấp tiến đã áp đặt chương trình Tái thiết theo ý họ.
Trong Đạo luật Tái thiết thông qua tháng 3/1867, Quốc hội đã phớt lờ những chính phủ đã được thành lập ở các bang miền Nam và chia miền Nam thành năm khu vực quân sự, mỗi khu vực do một viên tướng của Liên bang điều hành. Việc quản lý quân sự thường xuyên sẽ không áp dụng cho những bang mà ở đây đã thành lập các chính phủ dân sự phê chuẩn Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 và chấp nhận quyền bầu cử của người da đen. Những người ủng hộ phe ly khai và không tuyên thệ trung thành với nước Mỹ thường không được đi bầu cử. Điều bổ sung sửa đổi thứ 14 được phê chuẩn năm 1868. Điều bổ sung sửa đổi thứ 15 được Quốc hội thông qua vào năm sau đó và được các cơ quan lập pháp bang phê chuẩn năm 1870 đã quyết định rằng quyền đi bầu cử của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị phủ nhận hay hạn chế bởi Chính phủ Hoa Kỳ hay chính phủ bất kỳ bang nào vì lý do chủng tộc, màu da hay tình trạng nô lệ trước đây.
Những đảng viên Cộng hòa cấp tiến trong Quốc hội đã nổi khùng lên vì những lần phủ quyết (mặc dù những phủ quyết này đã bị bác bỏ) của Tổng thống Johnson đối với luật bảo vệ những người da đen mới được giải phóng và trừng phạt những thủ lĩnh của phe ly khai trước đây bằng cách tước bỏ quyền tham gia quản lý nhà nước của họ. Mối ác cảm của Quốc hội đối với Johnson lớn đến mức, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, việc luận tội đã được tiến hành nhằm bãi miễn tổng thống.
Hành động chống đối chính của Johnson là việc ông đối đầu với các chính sách trừng phạt của Quốc hội và thứ ngôn ngữ thô bạo mà ông dùng để phê phán các chính sách đó. Sự buộc tội theo luật pháp nghiêm trọng nhất mà những kẻ thù của ông có thể nhằm vào chống lại ông là tuy đã có Luật Bổ nhiệm (một đạo luật đòi hỏi sự tán thành của Thượng viện về việc bãi miễn bất kỳ quan chức nào mà Thượng viện trước đây đã phê chuẩn bổ nhiệm) nhưng ông đã bãi nhiệm khỏi Nội các của mình viên Bộ trưởng Chiến tranh, một người ủng hộ trung thành của Quốc hội. Khi việc luận tội được tiến hành tại Thượng viện, Johnson đã được chứng minh là ông bãi nhiệm thành viên Nội các của mình theo đúng quyền hạn. Thậm chí còn quan trọng hơn khi người ta vạch rõ rằng một tiền lệ nguy hiểm sẽ được lập ra nếu Quốc hội buộc phải bãi nhiệm một tổng thống chỉ vì ông bất đồng với đa số các nghị sỹ của Quốc hội. Việc bỏ phiếu cuối cùng đã không đạt đủ hai phần ba số phiếu theo yêu cầu để kết tội ông.
Johnson tiếp tục tại vị cho đến khi nhiệm kỳ của ông kết thúc vào năm 1869, nhưng Quốc hội đã thành lập được uy lực của mình cho tới tận cuối thế kỷ XIX. Chiến thắng của Đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1868, viên cựu tướng của Liên bang Ulysses S. Grant, đã giúp cho việc triển khai những chính sách tái thiết mà phe Cấp tiến khởi xướng.
Cho tới tháng 6/1868, Quốc hội đã tái chấp nhận phần lớn các bang thuộc phe ly khai vào liên bang. Trong nhiều bang được tái thiết này, đa số các thống đốc, Hạ nghị sỹ và Thượng nghị sỹ là người miền Bắc – những người được mệnh danh là đám người đầu cơ chính trị- họ đã đến miền Nam sau chiến tranh để sắp đặt thời vận chính trị của mình, thường là liên minh với những người Mỹ gốc Phi mới được giải phóng khỏi ách nô lệ. Trong các cơ quan lập pháp ở bang Louisiana và Nam Carolina, người Mỹ gốc Phi đã thực sự giành được đa số ghế.
Nhiều người da trắng miền Nam do ưu thế chính trị và xã hội của họ bị đe dọa nên đã quay sang dùng những biện pháp bất hợp pháp đề ngăn chặn người da đen giành được quyền bình đẳng. Bạo lực chống người da đen của các tổ chức bất hợp pháp như Ku Klux Klan trở nên ngày càng thường xuyên. Vào năm 1870 sự hỗn loạn phát triển mạnh dẫn tới việc thông qua các Đạo luật Cưỡng chế năm 1870 và 1871 trừng phạt nghiêm khắc những kẻ nào âm mưu tước đoạt những quyền dân sự của người nô lệ da đen đã được giải phóng.