Khái niệm hướng đối tượng được xây dựng trên nền tảng của khái niệm lập trình có cấu trúc và sự trừu tượng hóa dữ liệu. Sự thay đổi căn bản ở chỗ, một chương trình hướng đối tượng được thiết kế xoay quanh dữ liệu mà chúng ta có thể làm việc trên đó, hơn là theo chính chức năng của chương trình. Điều này hoàn toàn tự nhiên một khi chúng ta hiểu rằng mục tiêu của chương trình là xử lý dữ liệu. Suy cho cùng, công việc mà máy tính thực hiện vẫn thường được gọi là xử lý dữ liệu. Dữ liệu và thao tác liên kết với nhau ở một mức cơ bản (còn có thể gọi là mức thấp), mỗi thứ đều đòi hỏi ở thứ kia có mục tiêu cụ thể, các chương trình hướng đối tượng làm tường minh mối quan hệ này.

Lập trình hướng đối tượng (Object Oriented Programming-OOP) hay chi tiết hơn là Lập trình định hướng đối tượng, chính là phương pháp lập trình lấy đối tượng làm nền tảng để xây dựng thuật giải, xây dựng chương trình. Thực chất đây không phải là một phương pháp mới mà là một cách nhìn mới trong việc lập trình. Để phân biệt, với phương pháp lập trình theo kiểu cấu trúc mà chúng ta quen thuộc trước đây, hay còn gọi là phương pháp lập trình hướng thủ tục, người lập trình phân tích một nhiệm vụ lớn thành nhiều công việc nhỏ hơn, sau đó dần dần chi tiết, cụ thể hoá để được các vấn đề đơn giản, để tìm ra cách giải quyết vấn đề dưới dạng những thuật giải cụ thể rõ ràng qua đó dễ dàng minh hoạ bằng ngôn ngữ giải thuật. Cách thức phân tích và thiết kế như vậy chúng ta gọi là nguyên lý lập trình từ trên xuống, để thể hiện quá trình suy diễn từ cái chung cho đến cái cụ thể.

Các chương trình con là những chức năng độc lập, sự ghép nối chúng lại với nhau cho chúng ta một hệ thống chương trình để giải quyết vấn đề đặt ra. Chính vì vậy, cách thức phân tích một hệ thống lấy chương trình con làm nền tảng, chương trình con đóng vai trò trung tâm của việc lập trình, được hiểu như phương pháp lập trình hướng về thủ tục. Tuy nhiên, khi phân tích để thiết kế một hệ thống không nhất thiết phải luôn luôn suy nghĩ theo hướng “làm thế nào để giải quyết công việc”, chúng ta có thể định hướng tư duy theo phong cách “với một số đối tượng đã có, phải làm gì để giải quyết được công việc đặt ra” hoặc phong phú hơn, “làm cái gì với một số đối tượng đã có đó”, từ đó cũng có thể giải quyết được những công việc cụ thể. Với phương pháp phân tích trong đó đối tượng đóng vai trò trung tâm của việc lập trình như vậy.

Lập trình hướng đối tượng liên kết cấu trúc dữ liệu với các thao tác, theo cách mà tất cả thường nghĩ về thế giới quanh mình. Chúng ta thường gắn một số các hoạt động cụ thể với một loại hoạt động nào đó và đặt các giả thiết của mình trên các quan hệ đó.

Lập trình hướng đối tượng cho phép chúng ta sử dụng các quá trình suy nghĩ như vậy với các khái niệm trừu tượng được sử dụng trong các chương trình máy tính. Một mẫu tin nhân sự có thể được đọc ra, thay đổi và lưu trữ lại; còn số phức thì có thể được dùng trong các tính toán. Tuy vậy không thể nào lại viết một số phức vào tập tin làm mẫu tin nhân sự và ngược lại hai mẫu tin nhân sự lại không thể cộng với nhau được. Một chương trình hướng đối tượng sẽ xác định đặc điểm và hành vi cụ thể của các kiểu dữ liệu, điều đó cho phép chúng ta biết một cách chính xác rằng chúng ta có thể có được những gì ở các kiểu dữ liệu khác nhau.

Chúng ta còn có thể tạo ra các quan hệ giữa các kiểu dữ liệu tương tự nhưng khác nhau trong một chương trình hướng đối tượng. Người ta thường tự nhiên phân loại ra mọi thứ, thường đặt mối liên hệ giữa các khái niệm mới với các khái niệm đã có, và thường có thể thực hiện suy diễn giữa chúng trên các quan hệ đó. Hãy quan niệm thế giới theo kiểu cấu trúc cây, với các mức xây dựng chi tiết hơn kế tiếp nhau cho các thế hệ sau so với các thế hệ trước. Đây là phương pháp hiệu quả để tổ chức thế giới quanh chúng ta. Các chương trình hướng đối tượng cũng làm việc theo một phương thức tương tự, trong đó chúng cho phép xây dựng các các cơ cấu dữ liệu và thao tác mới dựa trên các cơ cấu có sẵn, mang theo các tính năng của các cơ cấu nền mà chúng dựa trên đó, trong khi vẫn thêm vào các tính năng mới. Lập trình hướng đối tượng cho phép chúng ta tổ chức dữ liệu trong chương trình theo một cách tương tự như các nhà sinh học tổ chức các loại thực vật khác nhau. Theo cách nói lập trình đối tượng, xe hơi, cây cối, các số phức, các quyển sách đều được gọi là các lớp (Class).

Một lớp là một bản mẫu mô tả các thông tin cấu trúc dữ liệu, lẫn các thao tác hợp lệ của các phần tử dữ liệu. Khi một phần tử dữ liệu được khai báo là phần tử của một lớp thì nó được gọi là một đối tượng (Object). Các hàm được định nghĩa hợp lệ trong một lớp được gọi là các phương thức (Method) và chúng là các hàm duy nhất có thể xử lý dữ liệu của các đối tượng của lớp đó. Một thực thể (Instance) là một vật thể có thực bên trong bộ nhớ, thực chất đó là một đối tượng (nghĩa là một đối tượng được cấp phát vùng nhớ).

Mỗi một đối tượng có riêng cho mình một bản sao các phần tử dữ liệu của lớp còn gọi là các biến thực thể (Instance variable). Các phương thức định nghĩa trong một lớp có thể được gọi bởi các đối tượng của lớp đó. Điều này được gọi là gửi một thông điệp (Message) cho đối tượng. Các thông điệp này phụ thuộc vào đối tượng, chỉ đối tượng nào nhận thông điệp mới làm việc theo thông điệp đó. Các đối tượng đều độc lập với nhau vì vậy các thay đổi trên các biến thể hiện của đối tượng này không ảnh hưởng gì trên các biến thể hiện của các đối tượng khác và việc gửi thông điệp cho một đối tượng này không ảnh hưởng gì đến các đối tượng khác.

Như vậy, đối tợng được hiểu theo nghĩa là một thực thể mà trong đó các dữ liệu và thủ tục tác động lên dữ liệu đã được đóng gói lại với nhau. Hay “đối tượng được đặc trưng bởi một số thao tác (operation) và các thông tin (information) ghi nhớ sự tác động của các thao tác này.

Các thao tác trong đối tượng được gọi là các phương thức hay hành vi của đối tượng đó. Phương thức và dữ liệu của đối tượng luôn tác động lẫn nhau và có vai trò ngang nhau trong đối tượng, Phương thức của đối tượng được qui định bởi dữ liệu và ngược lại, dữ liệu của đối tượng được đặt trưng bởi các phương thức của đối tượng. Chính nhờ sự gắn bó đó, chúng ta có thể gởi cùng một thông điệp đến những đối tượng khác nhau. Điều này giúp người lập trình không phải xử lý trong chương trình của mình một dãy các cấu trúc điều khiển tuỳ theo thông điệp nhận vào, mà chương trình được xử lý vào thời điểm thực hiện.

Tóm lại, so sánh lập trình cấu trúc với chương trình con làm nền tảng:Chương trình = Cấu trúc dữ liệu + Thuật giải

Trong lập trình hướng đối tượng chúng ta có: Đối tượng = Phương thức + Dữ liệu

Đây chính là 2 quan điểm lập trình đang tồn tại và phát triển trong thế giới ngày nay.

Class sửa

Chỉ cần một ít cú pháp và từ khóa mới, Python đã có thể hỗ trợ class. Nó là sự trộn lẫn giữa C++ và Modula-3. Cũng như module, các lớp trong Python không đặt rào cản tuyệt đối giữa định nghĩa lớp và người sử dụng, mà thay vào đó nó dựa vào sự lịch thiệp trong cách dùng mà ``không phá định nghĩa. Tuy nhiên, các tính năng quan trọng nhất của class vẫn được giữ lại trọn vẹn: cách kế thừa class hỗ trợ nhiều class cơ sở, class con có thể định nghĩa lại bất kỳ phương thức nào của các class cơ sở của nó, và một phương thức có thể gọi một phương thức cùng tên của một class cơ sở. Các đối tượng có thể chứa một lượng dũ liệu riêng bất kỳ.

Theo thuật ngữ C++, mọi thành viên class (kể cả thành viên dữ liệu) là public(công cộng), và mọi thành viên hàm là virtual(ảo). Không có bộ khởi tạo (constructor) hoặc bộ hủy (destructor) đặc biệt. Cũng như Modula-3, không có cách viết tắt nào để tham chiếu tới các thành viên của một đối tượng từ các phương thức của nó: hàm phương thức được khai báo với thông số thứ nhất thể hiện chính đối tượng đó, và được tự động truyền vào qua lệnh gọi. Như trong Smalltalk, các class cũng là các đối tượng theo một nghĩa rộng: trong Python, mọi kiểu dữ liệu đều là các đối tượng. Điều này cho phép nhập (import) và đổi tên. Không như C++ và Modula-3, các kiểu có sẵn có thể được dùng như các class cơ sở để mở rộng bởi người dùng. Và như trong C++ nhưng không giống Modula-3, đa số các toán tử có sẵn với cú pháp đặc biệt (các toán tử số học, truy cập mảng, v.v...) có thể được định nghĩa lại trong các trường hợp cụ thể của class.

Về thuật ngữ sửa

Những từ chuyên ngành dùng ở đây theo từ vựng của Smalltalk và C++.

Các đối tượng có tính cá thể (individuality), và nhiều tên (trong nhiều phạm vi, scope) có thể được gắn vào cùng một đối tượng. Trong các ngôn ngữ khác được gọi là tên lóng (alias). Nó thường không được nhận ra khi dùng Python lần đầu, và có thể được bỏ qua khi làm việc với các kiểu bất biến cơ bản (số, chuỗi, bộ). Tuy nhiên, tên lóng có một ảnh hưởng đối với ý nghĩa của mã Python có sử dụng các đối tượng khả biến như danh sách, từ điển, và đa số các kiểu thể hiện các vật ngoài chương trình (tập tin, cửa sổ, v.v...). Nó thường được dùng vì tên lóng có tác dụng như là con trỏ theo một vài khía cạnh nào đó. Ví dụ, truyền một đối tượng vào một hàm rẻ vì chỉ có con trỏ là được truyền, và nếu một hàm thay đổi một đối tượng được truyền vào, thì nơi gọi sẽ thấy các thay đổi đó -- thay vì cần hai kiểu truyền thông số như trong Pascal.

Phạm vi trong Python và vùng tên sửa

Trước khi giới thiệu lớp, chúng ta sẽ cần hiểu phạm vi (scope) và vùng tên (namespace) hoạt động như thế nào vì các định nghĩa lớp sẽ sử dụng chúng. Kiến thức về vấn đề này cũng rất hữu dụng với những nhà lập trình Python chuyên nghiệp.

Bắt đầu với một vài định nghĩa.

  • A namespace (vùng tên)là ánh xạ từ tên vào đối tượng. Đa số các vùng tên được cài đặt bằng từ điển Python, nhưng điều đó thường là không quan trọng (trừ tốc độ), và có thể sẽ thay đổi trong tương lai. Các ví dụ vùng tên như: tập hợp các tên có sẵn (các hàm như abs(), và các tên biệt lệ có sẵn); các tên toàn cục trong một module; các tên nội bộ trong một phép gọi hàm. Theo nghĩa đó tập hợp các thuộc tính của một đối tượng cũng là một vùng tên. Điều quan trọng cần biết về vùng tên là tuyệt đối không có quan hệ gì giữa các vùng tên khác nhau; ví dụ hai module khác nhau có thể cùng định nghĩa hàm ``maximize mà không sợ lẫn lộn -- người dùng module phải thêm tiền tố tên module trước khi gọi hàm.

Cũng xin nói thêm là từ thuộc tính được dùng để chỉ mọi tên theo sau dấu chấm -- ví dụ, trong biểu thức z.real, real là một thuộc tính của đối tượng z. Nói đúng ra, tham chiếu tới tên trong một module là các tham chiếu tới thuộc tính: trong biểu thức modname.funcname, modname là một đối tượng module và funcname là một thuộc tính của nó. Trong trường hợp này, việc ánh xạ giữa các thuộc tính của mô-đun và các tên toàn cục được định nghĩa trong mô-đun thật ra rất đơn giản: chúng dùng chung một vùng tên!

Ghi chú:vùng tên!
Trừ một chuyện. Các đối tượng mô-đun có một thuộc tính chỉ đọc gọi là __dict__ trả về một từ điển dùng để cài đặt vùng tên của mô-đun; tên __dict__ là một thuộc tính nhưng không phải là một tên toàn cục. Rõ ràng, sử dụng nó vi phạm tính trừu tượng của cài đặt vùng tên, và nên được giới hạn vào những chuyện như gỡ rối.

Thuộc tính có thể là chỉ đọc, hoặc đọc ghi. Trong trường hợp sau, phép gán vào thuộc tính có thể được thực hiện. Các thuộc tính module là đọc ghi: bạn có thể viết "modname.the_answer = 42". Các thuộc tính đọc ghi cũng có thể được xóa đi với câu lệnh del . Ví dụ, "del modname.the_answer" sẽ xóa thuộc tính the_answer từ đối tượng tên modname.

Các vùng tên được tạo ra vào những lúc khác nhau và có thời gian sống khác nhau. Vùng tên chứa các tên có sẵn được tạo ra khi trình thông dịch Python bắt đầu, và không bao giờ bị xóa đi. Vùng tên toàn cục của một module được tạo ra khi định nghĩa module được đọc; bình thường, vùng tên module cũng tồn tại cho tới khi trình thông dịch thoát ra. Các câu lệnh được thực thi bởi lời gọi ở lớp cao nhất của trình thông dịch, vì đọc từ một kịch bản hoặc qua tương tác, được coi như một phần của mdunle gọi là __main__, cho nên chúng cũng có vùng tên riêng. (Các tên có sẵn thật ra cũng tồn tại trong một module; được gọi là __builtin__.)

Vùng tên nội bộ của một hàm được tạo ra khi hàm được gọi, và được xóa đi khi hàm trả về, hoặc nâng một biệt lệ không được xử lý trong hàm. Dĩ nhiên, các lời gọi hàm đệ quy có vùng tên riêng của chúng.

  • Phạm vi là một vùng văn bản của một chương trình Python mà một vùng tên có thể được truy cập trực tiếp. ``Có thể truy cập trực tiếp có nghĩa là một tham chiếu không đầy đủ (unqualifed reference) tới một tên sẽ thử tìm tên đó trong vùng tên.

Mặc dù phạm vi được xác định tĩnh, chúng được dùng một cách động. Vào bất kỳ một lúc nào, có ít nhất ba phạm vi lồng nhau mà vùng tên của chúng có thể được truy cập trực tiếp: phạm vi bên trong cùng, được tìm trước, chứa các tên nội bộ; các vùng tên của các hàm chứa nó, được tìm bắt đầu từ phạm vi chứa nó gần nhất (nearest enclosing scope); phạm vi giữa (middle scope), được tìm kế, chứa các tên toàn cục của module; và phạm vi ngoài cùng (được tìm sau cùng) là vùng tên chứa các tên có sẵn.

Nếu một tên được khai báo là toàn cục, thì mọi tham chiếu hoặc phép gán sẽ đi thẳng vào phạm vi giữa chứa các tên toàn cục của module. Nếu không, mọi biến được tìm thấy ngoài phạm vi trong cùng chỉ có thể được đọc (nếu thử khi vào các biến đó sẽ tạo một biến cục bộ mới trong phạm vi trong vùng, và không ảnh hưởng tới biến cùng tên ở phạm vi ngoài).

Thông thường, phạm vi nội bộ tham chiếu các tên nội bộ của hàm hiện tại (dựa vào văn bản). Bên ngoài hàm, phạm vi nội bộ tham chiếu cùng một vùng tên như phạm vi toàn cục: vùng tên của module. Các định nghĩa lớp đặt thêm một vùng tên khác trong phạm vi nội bộ.

Điểm quan trọng cần ghi nhớ là phạm vi được xác định theo văn bản: phạm vi toàn cục của một hàm được định nghĩa trong một module là vùng tên của module đó, cho dù module đó được gọi từ đâu, hoặc được đặt tên lóng nào. Mặt khác, việc tìm tên được thực hiện lúc chạy -- tuy nhiên, định nghĩa ngôn ngữ đang phát triển theo hướng xác định tên vào lúc ``dịch, cho nên đừng dựa vào việc tìm tên động! (Thực ra thì các biến nội bộ đã được xác định tĩnh.)

Một điểm ngộ của Python là các phép gán luôn gán vào phạm vi trong cùng. Phép gán không chép dữ liệu, chỉ buộc các tên và các đối tượng. Xóa cũng vậy: câu lệnh "del x" bỏ ràng buộc x khỏi vùng tên được tham chiếu tới bởi phạm vi nội bộ. Thực tế là mọi tác vụ có thêm các tên mới đều dùng phạm vi nội bộ: điển hình là các câu lệnh nhập và các định nghĩa hàm buộc tên module hoặc tên hàm vào phạm vi nội bộ. (Lệnh global có thể được dùng để cho biết một biến cụ thể là ở phạm vi toàn cục.)

Cái nhìn đầu tiên về class sửa

class thêm một ít cú pháp mới, ba kiểu đối tượng mới, và một ít ngữ nghĩa mới.

Cú pháp định nghĩa class sửa

Kiểu đơn giản nhất của việc định nghĩa class nhìn giống như:

class ClassName:
   <statement-1>
   .
   .
   .
   <statement-N>

Định nghĩa class, cũng như định nghĩa hàm (câu lệnh def ) phải được thực thi trước khi chúng có hiệu lực. (Bạn có thể đặt một định nghĩa hàm trong một nhánh của lệnh if , hoặc trong một hàm.)

Trong thực tế, các câu lệnh trong một định nghĩa class thường là định nghĩa hàm, nhưng các câu lệnh khác cũng được cho phép, và đôi khi rất hữu dụng. Các định nghĩa hàm trong một class thường có một dạng danh sách thông số lạ, vì phải tuân theo cách gọi phương thức.

Khi gặp phải một định nghĩa class, một vùng tên mới được tạo ra, và được dùng như là phạm vi nội bộ. Do đó, mọi phép gán vào các biến nội bộ đi vào vùng tên này. Đặc biệt, các định nghĩa hàm buộc tên của hàm mới ở đây.

Khi rời khỏi một định nghĩa class một cách bình thường, một đối tượng class được tạo ra. Đây cơ bản là một bộ gói (wrapper) của nội dung của vùng tên tạo ra bởi định nghĩa class. Phạm vi nội bộ ban đầu (trước khi vào định nghĩa class) được thiết lập lại, và đối tượng class được buộc vào đây qua tên class đã chỉ định ở định nghĩa class, (ClassName trong ví dụ trên).

Đối tượng class sửa

Các đối tượng class hỗ trợ hai loại tác vụ: tham chiếu thuộc tính và tạo trường hợp (instantiation).

Tham chiếu thuộc tính dùng cú pháp chuẩn được dùng cho mọi tham chiếu thuộc tính trong Python: obj.name. Các tên thuộc tính hợp lệ gồm mọi tên trong vùng tên của class khi đối tượng class được tạo ra. Do đó, nếu định nghĩa class có dạng như sau:

class MyClass:
   "A simple example class"
   i = 12345
   def f(self):
       return 'hello'

thì MyClass.i và MyClass.f là những tham chiếu thuộc tính hợp lệ, trả về một số nguyên và một đối tượng hàm, theo thứ tự đó. Các thuộc tính class cũng có thể gán vào, cho nên bạn có thể thay đổi giá trị của MyClass.i bằng phép gán. __doc__ cũng là một thuộc tính hợp lệ, trả về chuỗi tài liệu của class: "A simple example class".

  • Class instantiation (tạo trường hợp lớp) dùng cùng cách viết như gọi hàm. Hãy tưởng tượng một đối tượng class là một hàm không thông số trả về một trường hợp của class. Ví dụ (với class trên):
x = MyClass()

tạo một trường hợp mới của class và gán đối tượng này vào biến nội bộ x.

  • Tác vụ tạo trường hợp (``gọi một đối tượng class) tạo một đối tượng rỗng. Nhiều class thích tạo đối tượng với các trường hợp được khởi tạo ở một trạng thái đầu nào đó. Do đó một class có thể định nghĩa một phương thức đặc biệt tên __init__(), như sau:
   def __init__(self):
       self.data = []

Khi một class định nghĩa một phương thức __init__() , việc tạo trường hợp class sẽ tự động gọi __init__() ở trường hợp class mới vừa được tạo. Trong ví dụ nạy, một trường hợp đã khởi tạo mới có thể được tạo ra từ:

x = MyClass()

Dĩ nhiên, __init__() (phương thức) có thể nhận thêm thông số. Trong trường hợp đó, các thông số đưa vào phép tạo trường hợp lớp sẽ được truyền vào __init__(). Ví dụ,

>>> class Complex:
...     def __init__(self, realpart, imagpart):
...         self.r = realpart
...         self.i = imagpart
... 
>>> x = Complex(3.0, -4.5)
>>> x.r, x.i
(3.0, -4.5)

Đối tượng trường hợp sửa

Chúng ta có thể làm được gì với những đối tượng trường hợp? Tác vụ duy nhất mà các đối tượng trường hợp hiểu được là tham chiếu thuộc tính. Có hai loại tên thuộc tính hợp lệ, thuộc tính dữ liệu và phương thức.

  • data attributes (thuộc tính dữ liệu lớp) tương ứng với ``biến trường hợp trong Smalltalk, và thành viên dữ liệu trong C++. Thuộc tính dữ liệu không cần được khai báo; như các biến nội bộ, chúng tự động tồn tại khi được gán vào. Ví dụ, nếu x là một trường hợp của MyClass được tạo ra ở trên, đoạn mã sau in ra giá trị 16, mà không chừa lại dấu vết:
x.counter = 1
while x.counter < 10:
   x.counter = x.counter * 2
print x.counter
del x.counter

Loại tham chiếu thuộc tính trường hợp khác là một method (phương thức). Một phương thức là một hàm của một đối tượng. (Trong Python, từ phương thức không chỉ riêng cho trường hợp lớp: các kiểu đối tượng khác cũng có thể có phương thức. Ví dụ, đối tượng danh sách có phương thức tên append, insert, remove, sort, v.v... Tuy nhiên, trong phần sau chúng ta sẽ chỉ dùng từ phương thức dể chỉ các phương thức của đối tượng trường hợp lớp, trừ khi được chỉ định khác đi.)

Các tên phương thức hợp lệ của một đối tượng trường hợp phụ thuộc vào class của nó. Theo định nghĩa, mọi thuộc tính của một class mà là những đối tượng hàm định nghĩa các phương thức tương ứng của các trường hợp của class đó. Trong ví dụ của chúng ta, x.f là một tham chiếu phương thức hợp lệ, vì MyClass.f là một hàm, nhưng x.i không phải, bởi vì MyClass.i không phải. Nhưng x.f không phải là một thứ như MyClass.f nó là một method object (đối tượng phương thức), không phải là một đối tượng hàm.

Đối tượng phương thức sửa

Thông thường, một phương thức được gọi ngay sau khi nó bị buộc:

x.f()

Trong MyClass , nó sẽ trả về chuỗi 'hello'. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải gọi một phương thức ngay lập tức: x.f là một đối tượng phương thức, và có thể được cất đi và gọi vào một thời điểm khác. Ví dụ:

xf = x.f
while True:
   print xf()

sẽ tiếp tục in "hello" mãi mãi.

Chuyện gì thật sự xảy ra khi một phương thức được gọi? Bạn có thể đã nhận ra rằng x.f() được gọi với không thông số, mặc dù định nghĩa hàm của f chỉ định một thông số. Chuyện gì xảy ra với thông số đó? Python chắc chắn nâng một biệt lệ khi một hàm cần một thông số được gọi suông cho dù thông số đó có được dùng hay không đi nữa...

Thật ra, bạn cũng có thể đã đoán ra được câu trả lời: điểm đặc biệt của phương thức là đối tượng đó được truyền vào ở thông số đầu tiên của hàm. Trong ví dụ của chúng ta, lời gọi x.f() hoàn toàn tương đương với MyClass.f(x). Nói chung, gọi một hàm với một danh sách n thông số thì tương đương với việc gọi hàm tương ứng với một danh sách thông số được tạo ra bằng cách chèn đối tượng của phương thức vào trước thông số thứ nhất.

(Hiểu đơn giản là obj.name(arg1, arg2) tương đương với Class.name(obj, arg1, arg2) trong đó obj là đối tượng trường hợp của lớp Class, name là một thuộc tính hợp lệ không phải dữ liệu, tức là đối tượng hàm của lớp đó.)

Ví dụ về lập trình hướng đối tượng: Quản Lý Thành Viên [1] sửa

Một ví dụ khác về bài Quản Lý Thành Viên. Các bạn có thê tham khảo tại[2] sửa

Một vài lời bình sửa

Thuộc tính dữ liệu sẽ che thuộc tính phương thức cùng tên; để tránh vô tình trùng lặp tên, mà có thể dẫn đến các lỗi rất khó tìm ra trong các chương trình lớn, bạn nên có một quy định đặt tên nào đó để giảm thiểu tỉ lệ trùng lặp. Các quy định khả thi có thể gồm viết hoa tên phương thức, đặt tiền tố vào các tên thuộc tính dữ liệu (ví dụ như dấu gạch dưới _), hoặc dùng động từ cho phương thức và danh từ cho các thuộc tính dữ liệu.

Các thuộc tính dữ liệu có thể được tham chiếu tới bởi cả phương thức lẫn người dùng đối tượng đó. Nói một cách khác, lớp không thể được dùng để cài đặt các kiểu dữ liệu trừu tượng tuyệt đối. Trong thực tế, không có gì trong Python có thể ép việc che dấu dữ liệu, tất cả đều dựa trên nguyên tắc. (Mặt khác, cài đặt Python, được viết bằng C, có thể dấu các chi tiết cài đặt và điểu khiển truy cập vào một đối tượng nếu cần; điều này có thể được dùng trong các bộ mở rộng Python viết bằng C.)

Người dùng nên dùng các thuộc tính dữ liệu một cách cẩn thận, người dùng có thể phá hỏng những bất biến (invariant) được giữ bởi các phương thức nếu cố ý sửa các thuộc tính dữ liệu. Lưu ý rằng người dùng có thể thêm các thuộc tính dữ liệu riêng của họ vào đối tượng trường hợp mà không làm ảnh hưởng tính hợp lệ của các phương thức, miễn là không có trùng lặp tên, xin nhắc lại, một quy tắc đặt tên có thể giảm bớt sự đau đầu ở đây.

Không có cách ngắn gọn để tham chiếu tới thuộc tính dữ liệu (hoặc các phương thức khác!) từ trong phương thức. Điều này thật ra giúp chúng ta dễ đọc mã vì không có sự lẫn lộn giữa biến nội bộ và biến trường hợp.

Thông số đầu tiên của phương thức thường được gọi là self. Đây cũng chỉ là một quy ước: tên self hoàn toàn không có ý nghĩa đặc biệt trong Python. (Tuy nhiên xin nhớ nếu bạn không theo quy ước thì mã của bạn sẽ có thể trở nên khó đọc đối với người khác, và có thể là trình duyệt class được viết dựa trên những quy ước như vậy.)

Bất kỳ đối tượng hàm nào mà là thuộc tính của một class sẽ định nghĩa một phương thức cho các trường hợp của class đó. Không nhất thiết định nghĩa hàm phải nằm trong định nghĩa class trên văn bản: gán một đối tượng hàm vào một biến nội bộ trong class cũng được. Ví dụ:

# Function defined outside the class
def f1(self, x, y):
   return min(x, x+y)
class C:
   f = f1
   def g(self):
       return 'hello'
   h = g

Bây giờ f, g và h đều là thuộc tính của lớp C mà tham chiếu tới các đối tượng hàm, và do đó chúng đều là phương thức của các trường hợp của C -- h hoàn toàn tương đương với g. Chú ý rằng kiểu viết này thường chỉ làm người đọc càng thêm khó hiểu mà thôi.

Phương thức có thể gọi phương thức khác thông qua thuộc tính phương thức của thông số self :

class Bag:
   def __init__(self):
       self.data = []
   def add(self, x):
       self.data.append(x)
   def addtwice(self, x):
       self.add(x)
       self.add(x)

Phương thức có thể tham chiếu tới các tên toàn cục theo cùng một cách như các hàm thông thường. Phạm vi toàn cục của một phương thức là module chứa định nghĩa class. (Phạm vi toàn cục không bao giờ là class) Trong khi bạn ít gặp việc sử dụng dữ liệu toàn cục trong một phương thức, có những cách dùng hoàn toàn chính đáng: ví dụ như hàm và module được nhập vào phạm vi toàn cục có thể được sử dụng bởi phương thức, cũng như hàm và class được định nghĩa trong đó. Thông thường, class chứa các phương thức này được định nghĩa ngay trong phạm vi toàn cục, và trong phần kế đây chúng ta sẽ thấy tại sao một phương thức muốn tham chiếu tới chính class của nó.

Kế thừa sửa

Dĩ nhiên, một tính năng ngôn ngữ sẽ không đáng được gọi là class nếu nó không hỗ trợ kế thừa. Cú pháp của một định nghĩa lớp con như sau:

class DerivedClassName(BaseClassName):
   <statement-1>
   .
   .
   .
   <statement-N>

Tên BaseClassName phải đã được định nghĩa trong một phạm vi chứa định nghĩa lớp con. Thay vì tên lớp cơ sở, các biểu thức khác cũng được cho phép. Điều này rất hữu ích, ví dụ, khi mà lớp cơ sở được định nghĩa trong một module khác:

class DerivedClassName(modname.BaseClassName):

Việc thực thi định nghĩa class con tiến hành như là class cơ sở. Khi một đối tượng class được tạo ra, class cơ sở sẽ được nhớ. Nó được dùng trong việc giải các tham chiếu thuộc tính: nếu một thuộc tính không được tìm thấy ở trong class, việc tìm kiếm sẽ tiếp tục ở class cơ sở. Luật này sẽ được lặp lại nếu class cơ sở kế thừa từ một class khác.

Không có gì đặc biệt trong việc tạo trường hợp của các class con: DerivedClassName() tạo một trường hợp của class. Các tham chiếu hàm được giải như sau: thuộc tính lớp tương ứng sẽ được tìm, đi xuống chuỗi các class cơ sở nếu cần, và tham chiếu phương thức là hợp lệ nếu tìm thấy một đối tượng hàm.

class con có thể định nghĩa lại các phương thức của class cơ sở. Bởi vì phương thức không có quyền gì đặc biệt khi gọi một phương thức của cùng một đối tượng, một phương thức của class cơ sở gọi một phương thức khác được định nghĩa trong cùng class cơ sở có thể là đang gọi một phương thức do class con đã định nghĩa lại. (Người dùng C++ có thể hiểu là mọi phương thức của Python là virtual.)

Một phương thức được định nghĩa lại trong class con có thể muốn mở rộng thay vì thay thế phương thức cùng tên của class cơ sở. Có một cách đơn giản để gọi phương thức của class sơ sở: chỉ việc gọi "BaseClassName.methodname(self, arguments)". Đôi khi điều này cũng có ích cho người dùng. (Lưu ý rằng đoạn mã chỉ hoạt động nếu class cơ sở được định nghĩa hoặc nhập trực tiếp vào phạm vi toàn cục.)

Đa kế thừa sửa

Python cũng hỗ trợ một dạng đa kế thừa hạn chế. Một định nghĩa class với nhiều lớp cơ sở có dạng sau:

class DerivedClassName(Base1, Base2, Base3):
   <statement-1>
   .
   .
   .
   <statement-N>

Luật duy nhất cần để giải thích ý nghĩa là luật giải các tham chiếu thuộc tính của class. Nó tuân theo luật tìm theo chiều sâu, và tìm trái qua phải. Do đó, nếu một thuộc tính không được tìm ra trong DerivedClassName, nó sẽ được tìm trong Base1, rồi (đệ quy) trong các lớp cơ sở của Base1, rồi chỉ khi nó không được tìm thấy, nó sẽ được tìm trong Base2, và cứ như vậy.

(Đối với một số người tìm theo chiều rộng -- tìm Base2 và Base3 trước các lớp cơ sở của Base1 -- có vẻ tự nhiên hơn. Nhưng, điều này yêu cầu bạn biết một thuộc tính nào đó của Base1 được thật sự định nghĩa trong Base1 hay trong một trong các lớp cơ sở của nó trước khi bạn có thể biết được hậu quả của sự trùng lặp tên với một thuộc tính của Base2. Luật tìm theo chiều sâu không phân biệt giữa thuộc tính trực tiếp hay kế thừa của Base1.)

Ai cũng biết rằng việc dùng đa kế thừa bừa bãi là một cơn ác mộng cho bảo trì, đặc biệt là Python dựa vào quy ước để tránh trùng lặp tên. Một vấn đề cơ bản với đa kế thừa là một lớp con của hai lớp mà có cùng một lớp cơ sở. Mặc dù dễ hiểu chuyện gì xảy ra trong vấn đề này (trường hợp sẽ có một bản chép duy nhất của ``các biến trường hợp của các thuộc tính dữ liệu dùng bởi lớp cơ sở chung), nó không rõ cho lắm nếu các ý nghĩa này thật sự hữu ích.

Biến riêng sửa

Có một dạng hỗ trợ nho nhỏ nho các từ định danh riêng của lớp (class-private identifier). Các từ định danh có dạng __spam (ít nhất hai dấu gạch dưới ở đầu, nhiều nhất một dấu dạch dưới ở cuối) được thay thế văn bản (textually replace) bằng _classname__spam, trong đó classname là tên lớp hiện tại với các gạch dưới ở đầu cắt bỏ. Việc xáo trộn tên (mangling) được thực hiện mà không quan tâm tới vị trí cú pháp của định danh, cho nên nó có thể được dùng để định nghĩa các trường hợp, biến, phương thức, riêng của lớp, hoặc các biến toàn cục, và ngay cả các biến của trường hợp, riêng với lớp này trên những trường hợp của lớp khác . Nếu tên bị xáo trộn dài hơn 255 ký tự thì nó sẽ bị cắt đi. Bên ngoài lớp, hoặc khi tên lớp chỉ có ký tự gạch dưới, việc xáo trộn tên sẽ không xảy ra.

Xáo trộn tên nhằm cung cấp cho các lớp một cách định nghĩa dễ dàng các biến và phương thức ``riêng, mà không phải lo về các biến trường hợp được định nghĩa bởi lớp con, hoặc việc sử dụng biến trường hợp bởi mã bên ngoài lớp. Lưu ý rằng việc xáo trộn tên được thiết kế chủ yếu để tránh trùng lặp; người quyết tâm vẫn có thể truy cập hoặc thay đổi biến riêng. Và điều này cũng có thể có ích trong các trường hợp đặc biệt, như trong trình gỡ rối, và đó là một lý do tại sao lỗ hổng này vẫn chưa được vá.

Lưu ý rằng mã truyền vào exec, eval() hoặc execfile() không nhận tên lớp của lớp gọi là tên lớp hiện tại; điều này cũng giống như tác dụng của câu lệnh global , tác dụng của nó cũng bị giới hạn ở mã được biên dịch cùng. Cùng giới hạn này cũng được áp dụng vào getattr(), setattr() và delattr(), khi tham chiếu __dict__ trực tiếp.

Những điều khác sửa

Đôi khi nó thật là hữu ích khi có một kiểu dữ liệu giống như Pascal ``record hoặc C ``struct, gói gọn vài mẩu dữ liệu vào chung với nhau. Một định nghĩa lớp rỗng thực hiện được việc này:

class Employee:
   pass
 john= Employee() # Create an empty employee record
# Fill the fields of the record
john.name = 'John Doe'
john.dept = 'computer lab'
john.salary = 1000

Với mã Python cần một kiểu dữ liệu trừu tượng, ta có thể thay vào đó một lớp giả lập các phương thức của kiểu dữ liệu đó. Ví dụ, nếu bạn có một hàm định dạng một vài dữ liệu trong một đối tượng tập tin, bạn có thể định nghĩa một lớp với các phương thức read() và readline() lấy dữ liệu từ một chuỗi, và truyền vào nó một thông số.

Các đối tượng phương trức trường hợp cũng có thuộc tính: m.im_self là một đối tượng trường hợp với phương thức m, và m.im_func là đối tượng hàm tương ứng với phương thức.

Biệt lệ cũng là lớp sửa

Các biệt lệ được định nghĩa bởi người dùng cũng được định danh theo lớp. Bằng cách này, một hệ thống phân cấp biệt lệ có thể được tạo ra. Có hai dạng lệnh raise mới: raise Class, instance

raise instance Trong dạng đầu, instance phải là một trường hợp của kiểu Class hoặc là lớp con của nó. Dạng thứ hai là rút gọn của: raise instance.__class__, instance Lớp trong vế except tương thích với một biệt lệ nếu nó cùng lớp, hoặc là một lớp cơ sở (nhưng chiều ngược lại thì không đúng -- một vế except dùng lớp con sẽ không tương thích với một biệt lệ lớp cơ sở). Ví dụ, đoạn mã sau sẽ in B, C, D theo thứ tự đó:

class B:
   pass
class C(B):
   pass
class D(C):
   pass
for c in [B, C, D]:
   try:
       raise c()
   except D:
       print "D"
   except C:
       print "C"
   except B:
       print "B"

Nếu các vế except được đặt ngược (với "except B" ở đầu), nó sẽ in B, B, B -- vế except phù hợp đầu tiên được thực thi. Khi một thông điệp lỗi được in, tên lớp của biệt lệ được in, theo sau bởi dấu hai chấm và một khoảng trắng, và cuối cùng là trường hợp đã được chuyển thành chuỗi bằng hàm có sẵn str().

Bộ lặp sửa

Bây giờ có lẽ bạn đã lưu ý rằng hầu hết các đối tượng chứa (container object) có thể được lặp qua bằng câu lệnh for :

for element in [1, 2, 3]:
   print element
for element in (1, 2, 3):
   print element
for key in {'one':1, 'two':2}:
   print key
for char in "123":
   print char
for line in open("myfile.txt"):
   print line

Kiểu truy xuất này rõ ràng, xúc tích, và tiện lợi. Bộ lặp (iterator) được dùng khắp nơi và hợp nhất Python. Đằng sau màn nhung, câu lệnh for gọi iter() trên đối tượng chứa. Hàm này trả về một đối tượng bộ lặp có định nghĩa phương thức next() để truy xuất và các phần tử trong bộ chứa (container). Khi không còn phần tử nào, next() nâng biệt lệ StopIteration để yêu cầu vòng lặp for kết thúc. Ví dụ sau cho thấy cách hoạt động:

>>> s = 'abc'
>>> it = iter(s)
>>> it
<iterator object at 0x00A1DB50>
>>> it.next()
'a'
>>> it.next()
'b'
>>> it.next()
'c'
>>> it.next()
Traceback (most recent call last):
 File "<stdin>", line 1, in ?
   it.next()
StopIteration

Chúng ta đã hiểu giao thức bộ lặp, nên chúng ta có thể thêm cách thức bộ lặp (iterator behavior) vào lớp của chúng ta một cách dễ dàng. Định nghĩa một phương thức __iter__() trả về một đối tượng với một phương thức next() . Nếu lớp có định nghĩa next(), thì __iter__() chỉ cần trả về self:

class Reverse:
   "Iterator for looping over a sequence backwards"
   def __init__(self, data):
       self.data = data
       self.index = len(data)
   def __iter__(self):
       return self
   def next(self):
       if self.index == 0:
           raise StopIteration
       self.index = self.index - 1
       return self.data[self.index]
>>> for char in Reverse('spam'):
...     print char
...
m
a
p
s

Bộ tạo sửa

Bộ sinh (generator) là một công cụ đơn giản và mạnh mẽ để tạo các bộ lặp. Chúng được viết như những hàm thông thường nhưng dùng câu lệnh yield khi nào chúng muốn trả về dữ liệu. Mỗi lần next() được gọi, bộ sinh trở lại nơi nó đã thoát ra (nó nhớ mọi dữ liệu và câu lệnh đã được thực thi lần cuối). Một ví dụ cho thấy bộ sinh có thể được tạo ra rất dễ dàng:

def reverse(data):
   for index in range(len(data)-1, -1, -1):
       yield data[index]
>>> for char in reverse('golf'):
...     print char
...
f
l
o
g

Bất kỳ việc gì có thể được thực hiện với bộ sinh cũng có thể được thực hiện với các bộ lặp dựa trên lớp như đã bàn đến ở phần trước. Điều khiến bộ sinh nhỏ gọn là các phương thức __iter__() và next() được tự động tạo ra. Một tính năng chính khác là các biến nội bộ và trạng thái thực thi được tự động lưu giữa các lần gọi. Điều này làm cho hàm dễ viết hơn và rõ ràng hơn là cách sử dụng biến trường hợp như self.index và self.data. Thêm vào việc tự động tạo và lưu trạng thái chương trình, khi các bộ tạo kết thúc, chúng tự động nâng StopIteration. Cộng lại, các tính năng này làm cho việc tạo các bộ lặp không có gì khó hơn là viết một hàm bình thường.

Biểu thức bộ tạo sửa

Một vài bộ sinh đơn giản có thể được viết một cách xúc tích như các biểu thức bằng cách dùng một cú pháp giống như gộp danh sách (list comprehension) nhưng với ngoặc tròn thay vì ngoặc vuông. Các biểu thức này được thiết kế cho những khi bộ sinh được sử dụng ngay lập tức bởi hàm chứa nó. Biểu thức bộ sinh gọn hơn nhưng ít khả chuyển hơn là các định nghĩa bộ sinh đầy đủ và thường chiếm ít bộ nhớ hơn là gộp danh sách tương đương. Ví dụ:

>>> sum(i*i for i in range(10))                 # sum of squares
285
>>> xvec = [10, 20, 30]
>>> yvec = [7, 5, 3]
>>> sum(x*y for x,y in zip(xvec, yvec))         # dot product
260
>>> from math import pi, sin
>>> sine_table = dict((x, sin(x*pi/180)) for x in range(0, 91))
>>> unique_words = set(word  for line in page  for word in line.split())
>>> valedictorian = max((student.gpa, student.name) for student in graduates)
>>> data = 'golf'
>>> list(data[i] for i in range(len(data)-1,-1,-1))
['f', 'l', 'o', 'g']